5- Có mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không?
Mặc dù đổi mới được cho là bắt đầu từ Đại hội VI năm 1986,
nhưng thuật ngữ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa mãi tới đại hội IX năm 2001 mới xuất hiện, trong văn kiện
của đảng. Suốt thời gian dài 15 năm là sự vật vã giằng co về
nhận thức. Thị trường bị hiểu là đặc trưng của riêng chủ
nghĩa tư bản. Chấp nhận thị trường là chấp nhận tư bản chủ
nghĩa, phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phản bội chủ
nghĩa Mác Lênin. Vì vậy, Đại hội VIII tháng 6 năm 1996 xác
định:
- Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa
tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
- Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đây là bước đệm về nhận thức để đến Đại hội IX năm 2001, kinh
tế thị trường chính thức được thừa nhận là một chỉnh thể
kinh tế, nhưng được ghép thêm cái đuôi Định hướng xã hội chủ
nghĩa để khẳng định đảng cộng sản Việt Nam không phản bội chủ
nghĩa Mác Lênin, không đi chệch sang con đường phát triển tư bản
chủ nghĩa.
Báo cáo chính trị đại hội IX ghi rõ:
"Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc. Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản
xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ
nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản"."
15 năm sau, Báo cáo chínhn trị đại hội XII, tháng 01 năm 2016 vẫn xác định "con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật
của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp vối trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế".
Tại sao như vậy, tại sao suốt 30 năm, đảng cộng sản Việt Nam
vẫn không hiểu được, hay cố tình không hiểu bản chất không
tưởng của chủ nghĩa xã hội và hai khái niệm Thị trường và
Chủ nghĩa xã hội là hai khái niệm không thể trộn lẫn. Để
hiểu điều này, cần nhắc lại một chút.
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung. Nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế kế hoạch hóa là nguyên
tắc cân đối giữa nguồn lực và các mục tiêu xã hội. Các mục
tiêu xã hội được xác định một cách chủ quan và duy ý chí cho
từng giai đoạn, thường là 5 năm, và được thể hiện trên các văn
kiện của Đại hội đảng, như bác cáo chính trị và nghị quyết
Đại hội. Căn cứ trên các mục tiêu được chi tiết hóa bằng những
chỉ tiêu kinh tế xã hội, Chính phủ lập ra kế hoạch thực
hiện, dựa trên tài nguyên quốc gia, các nguồn lực xã hội và
năng lực sản xuất của nền kinh tế mà nhà nước là chủ sở hữu
duy nhất. Sản phẩm tạo ra từ nền kinh tế được phân phối hoàn
toàn cho nhu cầu xã hội, vì vậy không có tính hàng hóa. Về
lý thuyết, đây là sự cân đối khép kín từ sản xuất tới tiêu
thụ. Không có thị trường, hệ thống giá chỉ có tính quy ước,
do chính phủ tự đặt ra. Tất cả chỉ là thực hiện các chỉ tiêu
đã được kế hoạch hóa từ trước.
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó mọi hoạt động
kinh tế đều phải tuân thủ các quy tắc phát sinh từ các quy
luật của thị trường, đó là luật cung-cầu, luật cạnh tranh và
quy luật lợi nhuận. Điều kiện để một nền kinh tế được gọi là
kinh tế thị trường cần có:
1- Kinh tế hàng hóa, trao đổi hàng hóa là nhu cầu thiết yếu, là một cơ chế không thể thiếu.
2- Sở hữu cá thể, là quyền tối cao của chủ sở hữu trong quan hệ trao đổi.
3- Tự do cá nhân, là quyền tự chủ tối cao và tuyệt đối của mọi tác nhân kinh tế trong các quyết định kinh tế.
Rõ ràng hai mô hình trên là hai mô hình đối kháng, loại bỏ lẫn
nhau, nhưng sau 30 năm , cả hệ thống Hội đồng lý luận TW cộng
với bộ máy Tuyên giáo, có đến hàng trăm giáo sư tiến sĩ, vẫn
không thể đưa ra được lời giải thích. Trả lời thắc mắc của
các cán bộ lãnh đạo tỉnh, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, ngày 3/5/2014, Bộ trưởng bộ Kế hoạch đầu tư Bùi Quang Vinh
nói: “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.
Như vậy, ở đây có điều gì bí ẩn. Một điều gì đó đang được
cố che giấu. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nếu định hướng có nghĩa là hướng tới, thì chúng ta sẽ hỏi,
kinh tế thị trường hướng tới xã hội chủ nghĩa là thế nào.
Nếu ở đây, hai chữ "định hướng" cuả đảng hàm ý đảng sẽ biến
Thị trường dần dần thành Xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa những
đặc trưng của kinh tế thị trường, như sở hữu tư nhân sẽ dần
dần trở thành sở hữu nhà nước, kinh tế tư nhân, tư bản sẽ bị
thủ tiêu. Như vậy, chủ trương kinh tế đa thành phần, đa sở hữu
chỉ là một cái bẫy, là sự lừa đảo, chỉ là việc "nuôi cho
béo", nhằm rút kiệt sức dân cho mục tiêu xây dựng nền móng của
chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn quá độ. Đảng không nói sau
thời kỳ quá độ này, đảng sẽ quay lại thể chế kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp như thế nào. Đây còn là
một bí mật. Vì nếu xảy ra như cái kịch bản tưởng tượng ở
mục 4 trên kia, thì dù không biết có máu chảy hay không, chắc
chắn là có nhiều nước mắt.
Có khả năng thứ hai, chữ "định hướng" không có nghĩa là "quá
độ", tức là không có chuyện quay về con đường xã hội chủ
nghĩa. Đảng cộng sản thừa nhận nền kinh tế thị trường như một
định chế của chế độ, một nền kinh tế thị trường đích thực
và đầy đủ như mọi nền kinh tế thị trường trên thế giới. Có
nghĩa là đảng cộng sản Việt Nam thừa nhận sở hữu cá thể và
tự do cá nhân một lần cho suốt đời. Chữ "định hướng" hàm ý
điều chỉnh khuyết tật của nền kinh tế thị trường tự do thuần
tuý để hướng tới các mục tiêu nhân đạo của xã hội. Như vậy,
Thị trường sẽ là nơi làm ra của cải, vì đúng với sở trường
là năng động và hiệu quả, dưới tác động của cạnh tranh và
lợi nhuận, Thị trường sẽ là một đảm bảo tốt nhất cho việc
tạo ra lượng của cải nhiều nhất. Phúc lợi sẽ được phân phối
và tái phân phối cho các mục tiêu nhân đạo của xã hội, tạo ra
sự cân đối hài hoà cho toàn bộ xã hội trên nguyên tắc công
bằng, đồng thuận và đảm bảo tăng trưởng. Ở giữa Thị trường
và Xã hội là Nhà nước. Đây là mô hình mà bộ trưởng Bùi Quang
Vinh đang tìm. Nhưng bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam không
biết có thực lòng muốn tìm không, vì nó đang tồn tại không ở
đâu xa, trong khi cả bộ máy lý lận đảng tìm suốt 30 năm không
thấy. Đó là một nghịch lý, khiến người ta tự hỏi, hoặc trí
tuệ đảng có vấn đề, hoặc đảng đang cố tình lừa dối dân
chúng.
Mô hình này là mô hình gọi là "Thị trường xã hội" là thể
chế kinh tế phổ biến ở gần như tất cả các nước phát triển
nhất ở châu Âu lục địa già. Đặc biệt ở các nước bắc Âu, như
Thuỵ điển, Na uy, Phần Lan, Đan mạch, Đức, Bỉ Luxembourg, Pháp,
Anh. Ở những nước này, quyền con người và tự do cá nhân là
nguồn gốc và cũng là mục đích của Luật pháp và của mọi
chính sách kinh tế xã hội. Có nghĩa là Thị trường được bảo
hộ để phát triển tối ưu, và xã hội được thụ hưởng xứng đáng
nhất các hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Có gì là mâu thuẫn khi đảng cộng sản vẫn giữ nguyên lý tưởng
xã hội chủ nghĩa nhân đạo của mình mà không cần phải là Mác
xít Lêninít. Và có cần phải là cộng sản để thỏa mãn ước
nguyện vừa giàu có vừa công bằng dân chủ văn minh không? Rõ
ràng, quyền con người và tự do cá nhân không hề cản trở ca mục
tiêu xã hội nhân đạo. Chỉ còn điều duy nhất cần, là đảng tự
thay đổi.
6- Tự do kinh tế tất yếu tự do chính trị
- Tự do kinh tế là tự do kiếm sống, tự do mưu sinh là một biểu
hiện của tự do cá nhân, là quyền của Tạo hóa, bất khả tước
đọat. Trong tự do cá nhân có tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tự do hội họp, tự do nghiệp đoàn, tư do tôn giáo tín ngưỡng,
tự do tư tưởng.
- Chính trị là tập hợp, là hiệp hội hay tổ chức của những
cá thể cùng có chung, cùng chia sẻ hay cùng tôn thờ một tư
tưởng, một tín ngưỡng. Vì vậy, bản chất của xã hội tự do là
Đa nguyên, nó chỉ bị biến dạng, bóp méo khi bị tước đoạt một
cách bất chính bởi một lực lượng chính trị nào đấy. Sự
tước đoạt đó chỉ tồn tại khi duy trì được áp lực cưỡng chế
thông qua các công cụ quyền lực. Khi dỡ bỏ các áp lực nhân tạo
đó, xã hội lập tức trở về trạng thái vĩnh cửu, tức là quay
về bản chất Đa Nguyên của nó.
- Thị trường là sở hữu tư nhân cộng với tự do cá nhân, sở hữu
trí tuệ trong kinh tế tri thức là một loại tư liệu sản xuất
bất khả công hữu hóa. Sở hữu cá thể các sản phẩm trí tuệ
chính là tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng cộng với tự do nghiệp
đoàn là tự do chính trị.
- Kinh tế thị trường có quy luật tự do cạnh tranh. Luật tự do
cạnh tranh quy định quyền tự do nghiệp đoàn của các tác nhân
kinh tế để bảo vệ quyền lợi của mình. Tự do nghiệp đoàn là
tự do lập hội. Hội là tập hợp hay tổ chức của các cá thể
có cùng hoặc chia sẻ một loại lợi ích, có thể là lợi ích
vật chất và có thể là lợi ích phi vật chất, lợi ích tinh
thần. Đó chính là tự do chính trị.
Vì vậy khi thừa nhận tự do kinh tế, đương nhiên là thừa nhận
tự do cá nhân. Thừa nhận tự do cá nhân là thừa nhận tự do tín
ngưỡng, tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng cộng với tự do nghiệp
đoàn là tự do đảng phái. Một xã hội đa đảng phái là xã hội
đa nguyên chính trị. Đa nguyên chính trị thì không có độc quyền
chính trị, nghĩa là dân chủ. Như vậy tất cả chỉ là một, một
cái gốc. Cái gốc đó là tự do cá nhân. "Con người sinh ra tự do, Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được".
Các Hiệp định tự do thương mại FTA Việt Nam ký với các nước
và Liên Hịệp châu Âu, TPP với Mỹ và các nước Thái Bìng Dương,
là các Hiệp định được soạn thảo trên căn cứ lợi ích cá nhân
và quyền con người. Cam kết với các Hiệp định này, đảng cộng
sản dường như đã chấp nhận một lộ trình cải tổ. Đây có thể
là một cải cách tiệm tiến hoà bình. Một cách mượn các Hiệp
định để hợp thức hóa dần các thay đổi từ bên trong, kể cả
những thay đổi về chất mà không bị cản trở bởi lý luận học
thuyết.
7- Nhà nước và vai trò của nhà nước.
Trong mô hình cơ cấu xã hội hiện đại bao gồm Thị trường - Nhà
nước - Xã hội. Nhà nước là một định chế Trung gian, gạch nối
giữa Thị trường và Xã hội.
Như chúng ta đã thấy trong phần trước, chức năng nguyên thuỷ của
Nhà nước là Trọng tài, hay Quan toà. Cho dù xã hội đã qua
hàng nghìn năm từ khi trở thành một bộ máy công quyền có tính
chuyên nghiệp, Nhà nước hiện đại không thể chối bỏ chức năng
cơ bản là trung gian phân giải, điều hoà các xung đột giữa các
tác nhân khác nhau trong xã hội. Với chức năng hòa giải, Nhà
nước phải không chịu ràng buộc hoặc gắn kết lợi ích với bất
cứ bên nào trong các bên xung đột. Nhà nước phải là cơ quan
không tham gia trực tiếp vào các hoạt động vì vụ lợi, kể cả
lợi ích đó là lợi ích công.
Trong một xã hội công nghiệp, các xung đột thông thường là
những xung đột giữa một bên là doanh nghiệp và một bên là lao
động làm thuê. Những xung đột này, nếu không được giải quyết
thỏa đáng, sẽ gây tổn thương cho bên bị thiệt hại, tác động
tiêu cực tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, giảm lợi
nhuận, giảm khả năng đóng góp của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực
tiếp tới ngân sách nhà nước, từ đó tác động tiêu cực tới
các giải pháp phúc lợi xã hội. Với bản tính vị kỷ, giới
chủ doanh nghiệp thông thường có xu hướng giữ lại cho mình quá
phần lợi ích thích đáng. Muốn để có thể giải quyết được các
xung đột này, Nhà nước phải thật sự là Trung tính, khách
quan, không có lợi ích gắn với bên nào, đảm bảo uy lực đối
với cả hai phía. Nhà nước không trực tiếp làm kinh tế. Các
lĩnh vực không có tư nhân tham gia kinh doanh, do không có khả năng
sinh lợi, nhà nước mời thầu với lãi suất định mức tính
trước, coi như một khoản thuế âm.
Trong xã hội dân chủ hiện đại, Nhà nước và Chính phủ là hai
bộ phận tách rời. Chính phủ luôn có khả năng luân chuyển theo
định kỳ bầu cử, thường mang tíng đảng. Trong khi Nhà nước là
công cụ chuyên môn thuần tuý, sẵn sàng phục vụ bất cứ chính
phủ nào, vì vậy, Nhà nước là bộ máy phi chính trị và trung
lập, có kết cấu tinh gọn và chuyên nghiệp nhất.
Mọi chính sách sẽ được thể hiện bằng pháp luật. Với mỗi
chính sách, thay vì ra Nghị định và Thông tư chỉ có giá trị
quy phạm nội bộ và hành chính, Chính phủ ra một luật hay bộ
luật tương ứng. Quy trình phê chuẩn luật vẫn theo nguyên tắc
Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhấtb quyết định bằng bỏ
phiếu kín hay biểu quyết công khai. Nhưng sau khi ban hành luật
thì không phải chính phủ là người duy nhất giám sát mà là tư
pháp. Vi phạm pháp luật sẽ bị truy tố bất kể người đó là ai.
Vì một khi đã thành luật thì cái được bảo vệ là lợi ích
bao trùm của cộng đồng là lợi ích cao nhất, lợi ích tối
thượng. Ngay cả vai trò trung tính của Nhà nước cũng được quy
định bằng Luật Nhà nước. Đó là nhà nước Pháp quyền.
Đảng phái hay lực lượng chính trị thắng cử, có quyền lập ra
chính phủ, thường là đảng chiếm được số ghế lớn nhất trong
quốc hội hay cơ quan lập pháp. Đấy chính là đa số phiếu đảm
bảo cho việc phê chuẩn các bộ luật thể hiện đường lối và
chính sách của đảng, theo chương trình đã dẫn đảng đến thắng
lợi của trong chiến dịch tranh cử.
Trong xã hội dân chủ hiện đại, cơ chế điều chỉnh sự bóc lột
thô bạo của chủ nghĩa lợi nhuận thuần tuý không phải là Nhà
nước. Nhà nước không bảo vệ lợi ích của các tác nhân riêng rẽ
trong xã hội. Chức năng đó là của các tổ chức tình nguyện
dân sự hay là xã hội dân sự. Tổ chức dân sự là các tổ chức
tình nguyện không vụ lợi hoat động có mục địch bảo vệ quyền
lợi của hội viên. Có các tổ chức đại diện những người lao
động làm thuê, nhưng cũng có các tổ chức dân sự của giới chủ
doanh nghiệp. Xung đột giữa các hội đại diện sẽ được giải
quyết thông qua thương lượng dưới sự giám sát và chứng kiến
của nhà nước. Giải tỏa các xung đột trên lợi ích cộng đồng,
nghĩa là không bên nào bị thiệt, hướng tới lợi ích chung là
tăng trưởng. Trong tăng trưởng có lợi nhuận của nhà doanh
nghiệp, có tiền lương của người lao động, có thuế thu nhập và
thuế doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng... giúp tăng ngân sách,
từ đó tăng khả năng phân phối phúc lợi xã hội. Nhà nước sẽ
là trung gian tạo mọi điều kiện cho tăng trưởng, lấy tăng trưởng
làm mục đích và quy tắc cho mọi hoà gỉải. Tăng trưởng bao
gồm lợi nhuận của doanh nghiệp vừa để tăng tích luỹ năng lực
mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, vừa thỏa mãn nhu cầu lợi
nhuận, khuyến khích đầu tư của chủ doanh nghiệp. Trong tăng
trưởng có tăng lương, tăng thu nhập thực tế của người lao động,
trên cơ sở tỷ lệ ăn chia hợp lý theo nguyên tắc tạo ra tăng
trưởng. Trong tăng trưởng có tăng trưởng năng lực điều phối phúc
lợi xã hội do tăng nguồn thu ngân sách dựa trên của cải tạo ra
từ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng phúc lợi là tăng trưởng an
sinh xã hội, là tăng trưởng văn hóa và văn minh xã hội, tăng
sức mua , tăng khả năng tiêu thụ từ chính bản thân nền kinh tế,
đảm bảo tăng trưởng bền vững. Đây chính là vai trò kiến tạo
tăng trưởng của Nhà nước.
Phản ứng của các tổ chức dân sự từ cả hai phía lao động và
chủ doanh nghiệp, phản ánh chất lượng các bộ luật hay luật do
chính phủ ban hành. Các luật hay bộ luật có tác haị hay có vi
phạm sẽ bị đưa ra toà mà người bị đơn là Chính phủ.
Như vậy, khả năng khắc phục những khuyết tật của thị trường
thuần tuý gồm xã hội dân sự và Nhà nước trung tính, hay nhà
nước kiến tạo là hai trụ cột chính của một xã hội mang tính
chất xã hội chủ nghĩa.
Để có một xã hội có tính xã hội chủ nghĩa nhất, trong thời
điểm hiện nay là mô hình kinh tế Thị trường xã hội châu Âu.
Công thức của nó là Thị trường tự do + Nhà nước Trung tính+
Xã hội dân sự.
Không phải cứ mang tên cộng sản là có được công bằng và thịng
vượng. Nếu để đạt được giàu có và công bằng thì cách gọi tên
chế độ là gì có quan trọng lắm không. Ở Cộng hoà Liên bang
Đức, trong tên nước không có gì là cộng sản. các đảng luân
phiên nhau cầm quyền từ hơn 70 năm nay không có đảng nào là cộng
sản, nhưng đây là nơi có chế độ xã hội nhân đạo và văn minh
nhất. Con người được hưởng thụ hiệu quả tăng trưởng tốt nhất.
Đảng cộng sản Việt Nam cũng sẽ thay đổi, vì không thể không
thay đổi, vì thay đổi là tất yếu.
8- Việt Nam không thể không thay đổi.
Đã đến cái thời điểm mà đề tiếp tục tồn tại Việt Nam không thể không thay đổi
* Dân chủ để bảo vệ chủ quyền
- Dân chủ hóa Việt nam, dựa vào cơ chế Trưng cầu dân ý để
chống lại và làm thất bại âm mưu bành trướng của nhà cầm
quyền cộng sản Trung Hoa
- Dùng dân chủ Việt Nam làm động lực dân chủ hóa Trung Quốc như
một giải phảp lâu bền và chắc chắn nhất để bảo vệ chủ
quyền.
* Nhu cầu thay đổi hướng tới dân chủ là thực thế không thể đảo ngược
- Thời kỳ đói khát đã qua. 30 năm cởi trói, người dân Việt đói
khát quá lâu đã lao vào cuộc tìm kiếm giàu có đã chỉ là
những cuộc giành giật giữa dân chúng với nhau đã lắng xuống.
Nhu cầu kiếm sống và làm giàu đã trở nên không còn gay gắt,
một mặt, đời sống đã trở nên dễ chịu với cái đói đã thật
sự lùi xa với gần 90% dân số, một mặt cơ hội giành giật của
trời, do chuyển đổi từ một xã hội mà mọi tài sản, mọi của
cải không có chủ sở hữu thực sự cũng đã cạn và đang dần dần
có chủ, xã hội dân sự Việt Nam đang hồi tỉnh. Với bản năng
nhậy cảm , con người Việt nam sẽ ý thức được nhanh chóng nguyên
nhân của mọi nguyên nhân là chế độ. Nhu cầu phải có một Việt
Nam tự do, dân chủ như các nước xung quanh. Việt Nam phải có tốc
độ phát triển và xã hội phúc lợi tiên tiến vượt hơn hẳn các
nước khác, đã là một đòi hỏi có thật và bức thiết.
- Thời đại thông tin với một cộng đồng công dân tới 40 triệu
người, một khi chín muồi các điều kiện, sẽ là một cuộc cách
mạng không gì ngăn cản nổi.
- Một Xã hội dân sự Việt Nam đích thực đã hình thành, đang
phát triển rất nhanh về số lượng chất lượng, đang trở thành
một làn sóng không thể trấn áp được bằng bạo lực.
- Giới trí thức tinh hoa của xã hội Việt Nam đã có một bước
nhảy lớn và quyết định trong nhận thức vai trò của mình và
đang thoát dần sự lệ thuộc ý thức hệ với chế độ sẽ là một
động lực có ý nghĩa quyết định.
- Nhu cầu hoà hợp hoà gỉải dân tộc khỏi những hận thù quá
khứ, giải phóng con đường quy tụ dân tộc đang trở thành một
thúc ép không thể từ chối và lẩn tránh.
Chỉ có thể thay đổi hẳn về chất, thay đổi một cách hoàn toàn
và triệt để, đảng cộng sản mới đáp ứng được các đòi hỏi
thúc bách đó, và mới tránh được bị đào thải bằng một giải
pháp bạo lực đại chúng.
Paris 11/03/2016