Thứ Tư, 30 tháng 3, 2016

Ai sẽ chịu trách nhiệm trên đất nước này?

tuankhanh's picture

Trong một Quốc gia của một thể chế suy tôn để núp bóng, tôn thờ một chủ thuyết (mà lại ngoại lai tận mạt) thì bám giữ quyền lực độc tài là tôn chỉ tất yếu "đỉnh cao", là "trí tuệ" mẫn tiệp của môn phái "xây dựng đảng". Bảo vệ môn quy "còn đảng còn mình" là trọng trách sinh mạng như bảo vệ "con ngươi của mình".
Nhìn đâu cũng thấy "thế lực thù địch" đơn giản vì đã chiếm đoạt hết tất cả quyền lợi của nhân dân. Để nuôi nấng cũng cố thế lực, chia chác quyền lợi quyền lực đến hàng hiên xó bếp.. xáo xác cả lòng người..
Có còn quá ít chút tình tính Lục Vân Tiên trong mỗi chúng ta !? Bởi thường "dõng giả" là nạn nhân ! Nên với những ông lý, ông đội đôi khi nhiệm vụ lại là sự gia ân được gán câu "kiến nghĩa bất vi" ..Vì quyền lợi người ta tránh trách nhiệm, vì quyền lợi người ta kiêm nhiệm đến vi hiến.. Mà Hiến pháp này cũng chẳng là quyền là việc gì với thằng dân này cả !..Trách nhiệm xa xỉ và vô nghĩa đến lạ lùng trong cái thời rực rỡ" này !
Quyền lực làm người ta tha hóa, cùng quẩn cũng làm tha hóa tha nhân ! .."Ai sẽ chịu trách nhiệm trên đất nước này?" Một câu hỏi tê tái, chạnh lòng dân tộc mà cũng trơ trống thinh không trong cõi quê hình chử S !!!


Cuộc tranh cãi gay gắt giữa hai phe phụ huynh vẫn không ngớt về nạn bắt cóc trẻ em, hiện râm ran trong từng gia đình.Người ta kể về những chuyện giành giật lại con cháu mình từ bọn bắt cóc ở ngã tư, có người may mắn, có người thì chỉ còn khóc hận.
Cuộc tranh cãi dữ dội hơn, ngay sau khi có lời tuyên bố của trung tá Nguyễn Quang Thắng, phó phòng tham mưu Công an TPHCM rằng không thể có nạn bắt cóc tràn lan trên đường phố.
Theo ông Quang Thắng thì cơ quan công an điều tra chỉ tiếp nhận duy nhất một vụ như vậy mà thôi.
Thật đáng phân vân, một bên là lời đoan chắc của hệ thống công quyền, còn một bên là an nguy của chính mình.
Báo Phụ nữ Việt Nam thì khẳng định rằng nhiều trường đã ra thông báo cho phụ huynh về tình trạng này, mà nhiều nơi đang xảy ra như ở trường Đặng Thuỳ Trâm (quận 7, TPHCM), trường mầm non Anh Tú (quận Tân Bình), trường Phan Như Thạch (phường 9, Lâm Đồng)…
Thật bất ngờ khi trong những lời cảnh báo về nạn bắt cóc trẻ em, có cả thông báo chính thức của Bộ Giáo dục vào ngày 13/1. Vụ trưởng vụ Công tác học sinh sinh viên Ngũ Duy Anh đã kêu gọi các trường học phải đề cao cảnh giác, tăng cường đảm bảo an ninh cho các em.
Trên truyền hình, các bài học võ thuật cơ bản nhằm chống cướp con trên tay cũng xuất hiện.
Vậy thì ai đúng, ai sai? Trong một xã hội mà mỗi ngày càng có nhiều biến động, người ta không thể răn đe việc tán phát tin đồn trong sự bất an của dân chúng, mà phải có những phương pháp giải quyết khủng hoảng hợp lý và tích cực của chính quyền.
Việc trống đánh xuôi, kèn thổi ngược chỉ làm mọi thứ thêm rối rắm, và cuối cùng chỉ có người dân là nạn nhân.
Xã hội Việt Nam nhận được rất nhiều các phát ngôn của các quan chức và chính quyền địa phương. Nhưng có vẻ như ít khi nào tìm thấy được ai thật sự là người chịu trách nhiệm trước mắt người dân, hoặc chịu trách nhiệm của bản thân mình.
Ngược lại, đôi khi người có trách nhiệm thường thoái thác rằng “bận họp” hoặc cúp máy đột ngột khi trả lời phỏng vấn. Dường như có ai đó phải chịu trách nhiệm, phải hành động trên đất nước này là điều mơ hồ, xa xôi.
Nhà báo Đỗ Doãn Hoàng tại Hà Nội, bị một nhóm người lạ mặt tấn công dã man bằng gậy vào ngày 23/3 ngang nhiên như trong phim xã hội đen.
Vụ tấn công diễn ra giữa ban ngày, như một nỗi nhục của nền báo chí quốc gia mà cho đến khi kết thúc không hề có bóng dáng công an viên nào xuất hiện. Sau khi đi cấp cứu, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng phải tự mình ra công an của khu vực đó để trình báo.
Lúc này, có rất nhiều nhà báo, rất nhiều sinh viên truyền thông dõi theo sự kiện này với nỗi phập phồng về tương lai và nghề nghiệp của mình, nhưng có vẻ vụ án như “bế tắc”. Và không ai phải chịu trách nhiệm về việc mất an ninh kỳ quặc như vậy ngay giữa thủ đô Hà Nội.
Trong sự kiện nữ học sinh Lê Thị Hà Vi, 15 tuổi ở Cư Kuin, Dăk Lăk bị bệnh viện địa phương chẩn đoán sai khiến phải cưa chân, ai cũng bất ngờ khi bà Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đến động viên và nói “bác hứa sẽ giúp cho con thi đậu vào ngành y”.
Sự kiện tắc trách của ngành y tế khiến ai cũng đau lòng, khiến một nữ sinh phải tàn tật suốt đời, nhưng để “đền” cho chuyện đó, mà một nữ sinh có nguyện vọng học ngành công an, đột nhiên được động viên chỉ cần học một năm là sẽ được giúp đậu ngành y, khiến ai cũng ngạc nhiên.
Nguyên gốc câu nói đó có thể trở thành vấn đề của pháp luật. Thi cử và học vấn là vấn đề thiết yếu của quốc gia, không thể tuỳ tiện như vậy. Ở vị trí là một người có học và có trách nhiệm, bà Tiến không thể tuỳ tiện. Việc “hứa giúp” của bà Tiến có thể đặt vào thế bị Bộ Giáo dục Việt Nam khởi kiện.
Nhưng tiếc thay, có vẻ như Bộ Giáo dục Việt Nam cũng không có ai thấy mình có trách nhiệm để cần phải lên tiếng.
Trách nhiệm cá nhân là một phần quan trọng của đất nước, trong giai đoạn mà mọi thứ đang có vẻ dần vào rối ren bởi quá nhiều hư hỏng, quá nhiều tai ương… hiện ra, cho thấy đó là những quyết định sai lầm, vội vã hay tư lợi của những cá nhân, những nhóm người nhưng hôm nay thì thật khó tìm ra người chịu trách nhiệm.
Chỉ còn lại nhân dân là người phải gánh vác những hậu quả, từ nợ công cho đến sự sụp đổ một cây cầu, một con đường hay một hàng cây xanh.
Từ chuyện một đứa trẻ bị bắt cóc, cho đến chuyện của Bộ Y tế, Bộ Giáo dục… rồi đến việc đánh đập nhà báo để bịt miệng công luận… mọi thứ cứ đi dần vào cõi u u mê mê của đời sống, vào tiếng thở dài của những người ngồi trên vỉa hè nhìn về tương lai đất nước với cảm giác rằng mọi thứ đang bị bỏ trôi, không có ai thật sự chịu trách nhiệm trên đất nước này.
Trách nhiệm luôn đi cùng danh dự và sự tồn vong của tổ quốc. Chúng ta sẽ mất cả, nếu không ai có đủ danh dự để chịu trách nhiệm trên đất nước mình, khởi đầu từ những điều nhỏ nhất.

Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2016

Liệu Việt Nam có thể tự cải cách? (Phần 3)



Phần Hai - Thay đổi là tất yếu (Tiếp)
Bùi Quang Vơm (Danlambao)
5- Có mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không?
Mặc dù đổi mới được cho là bắt đầu từ Đại hội VI năm 1986, nhưng thuật ngữ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mãi tới đại hội IX năm 2001 mới xuất hiện, trong văn kiện của đảng. Suốt thời gian dài 15 năm là sự vật vã giằng co về nhận thức. Thị trường bị hiểu là đặc trưng của riêng chủ nghĩa tư bản. Chấp nhận thị trường là chấp nhận tư bản chủ nghĩa, phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phản bội chủ nghĩa Mác Lênin. Vì vậy, Đại hội VIII tháng 6 năm 1996 xác định:
- Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
- Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đây là bước đệm về nhận thức để đến Đại hội IX năm 2001, kinh tế thị trường chính thức được thừa nhận là một chỉnh thể kinh tế, nhưng được ghép thêm cái đuôi Định hướng xã hội chủ nghĩa để khẳng định đảng cộng sản Việt Nam không phản bội chủ nghĩa Mác Lênin, không đi chệch sang con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Báo cáo chính trị đại hội IX ghi rõ:
"Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản"."
15 năm sau, Báo cáo chínhn trị đại hội XII, tháng 01 năm 2016 vẫn xác định "con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp vối trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế".
Tại sao như vậy, tại sao suốt 30 năm, đảng cộng sản Việt Nam vẫn không hiểu được, hay cố tình không hiểu bản chất không tưởng của chủ nghĩa xã hội và hai khái niệm Thị trường và Chủ nghĩa xã hội là hai khái niệm không thể trộn lẫn. Để hiểu điều này, cần nhắc lại một chút.
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế kế hoạch hóa là nguyên tắc cân đối giữa nguồn lực và các mục tiêu xã hội. Các mục tiêu xã hội được xác định một cách chủ quan và duy ý chí cho từng giai đoạn, thường là 5 năm, và được thể hiện trên các văn kiện của Đại hội đảng, như bác cáo chính trị và nghị quyết Đại hội. Căn cứ trên các mục tiêu được chi tiết hóa bằng những chỉ tiêu kinh tế xã hội, Chính phủ lập ra kế hoạch thực hiện, dựa trên tài nguyên quốc gia, các nguồn lực xã hội và năng lực sản xuất của nền kinh tế mà nhà nước là chủ sở hữu duy nhất. Sản phẩm tạo ra từ nền kinh tế được phân phối hoàn toàn cho nhu cầu xã hội, vì vậy không có tính hàng hóa. Về lý thuyết, đây là sự cân đối khép kín từ sản xuất tới tiêu thụ. Không có thị trường, hệ thống giá chỉ có tính quy ước, do chính phủ tự đặt ra. Tất cả chỉ là thực hiện các chỉ tiêu đã được kế hoạch hóa từ trước.
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó mọi hoạt động kinh tế đều phải tuân thủ các quy tắc phát sinh từ các quy luật của thị trường, đó là luật cung-cầu, luật cạnh tranh và quy luật lợi nhuận. Điều kiện để một nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường cần có:
1- Kinh tế hàng hóa, trao đổi hàng hóa là nhu cầu thiết yếu, là một cơ chế không thể thiếu.
2- Sở hữu cá thể, là quyền tối cao của chủ sở hữu trong quan hệ trao đổi.
3- Tự do cá nhân, là quyền tự chủ tối cao và tuyệt đối của mọi tác nhân kinh tế trong các quyết định kinh tế.
Rõ ràng hai mô hình trên là hai mô hình đối kháng, loại bỏ lẫn nhau, nhưng sau 30 năm , cả hệ thống Hội đồng lý luận TW cộng với bộ máy Tuyên giáo, có đến hàng trăm giáo sư tiến sĩ, vẫn không thể đưa ra được lời giải thích. Trả lời thắc mắc của các cán bộ lãnh đạo tỉnh, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 3/5/2014, Bộ trưởng bộ Kế hoạch đầu tư Bùi Quang Vinh nói: “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.
Như vậy, ở đây có điều gì bí ẩn. Một điều gì đó đang được cố che giấu. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nếu định hướng có nghĩa là hướng tới, thì chúng ta sẽ hỏi, kinh tế thị trường hướng tới xã hội chủ nghĩa là thế nào. Nếu ở đây, hai chữ "định hướng" cuả đảng hàm ý đảng sẽ biến Thị trường dần dần thành Xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa những đặc trưng của kinh tế thị trường, như sở hữu tư nhân sẽ dần dần trở thành sở hữu nhà nước, kinh tế tư nhân, tư bản sẽ bị thủ tiêu. Như vậy, chủ trương kinh tế đa thành phần, đa sở hữu chỉ là một cái bẫy, là sự lừa đảo, chỉ là việc "nuôi cho béo", nhằm rút kiệt sức dân cho mục tiêu xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn quá độ. Đảng không nói sau thời kỳ quá độ này, đảng sẽ quay lại thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp như thế nào. Đây còn là một bí mật. Vì nếu xảy ra như cái kịch bản tưởng tượng ở mục 4 trên kia, thì dù không biết có máu chảy hay không, chắc chắn là có nhiều nước mắt. 
Có khả năng thứ hai, chữ "định hướng" không có nghĩa là "quá độ", tức là không có chuyện quay về con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản thừa nhận nền kinh tế thị trường như một định chế của chế độ, một nền kinh tế thị trường đích thực và đầy đủ như mọi nền kinh tế thị trường trên thế giới. Có nghĩa là đảng cộng sản Việt Nam thừa nhận sở hữu cá thể và tự do cá nhân một lần cho suốt đời. Chữ "định hướng" hàm ý điều chỉnh khuyết tật của nền kinh tế thị trường tự do thuần tuý để hướng tới các mục tiêu nhân đạo của xã hội. Như vậy, Thị trường sẽ là nơi làm ra của cải, vì đúng với sở trường là năng động và hiệu quả, dưới tác động của cạnh tranh và lợi nhuận, Thị trường sẽ là một đảm bảo tốt nhất cho việc tạo ra lượng của cải nhiều nhất. Phúc lợi sẽ được phân phối và tái phân phối cho các mục tiêu nhân đạo của xã hội, tạo ra sự cân đối hài hoà cho toàn bộ xã hội trên nguyên tắc công bằng, đồng thuận và đảm bảo tăng trưởng. Ở giữa Thị trường và Xã hội là Nhà nước. Đây là mô hình mà bộ trưởng Bùi Quang Vinh đang tìm. Nhưng bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam không biết có thực lòng muốn tìm không, vì nó đang tồn tại không ở đâu xa, trong khi cả bộ máy lý lận đảng tìm suốt 30 năm không thấy. Đó là một nghịch lý, khiến người ta tự hỏi, hoặc trí tuệ đảng có vấn đề, hoặc đảng đang cố tình lừa dối dân chúng.
Mô hình này là mô hình gọi là "Thị trường xã hội" là thể chế kinh tế phổ biến ở gần như tất cả các nước phát triển nhất ở châu Âu lục địa già. Đặc biệt ở các nước bắc Âu, như Thuỵ điển, Na uy, Phần Lan, Đan mạch, Đức, Bỉ Luxembourg, Pháp, Anh. Ở những nước này, quyền con người và tự do cá nhân là nguồn gốc và cũng là mục đích của Luật pháp và của mọi chính sách kinh tế xã hội. Có nghĩa là Thị trường được bảo hộ để phát triển tối ưu, và xã hội được thụ hưởng xứng đáng nhất các hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Có gì là mâu thuẫn khi đảng cộng sản vẫn giữ nguyên lý tưởng xã hội chủ nghĩa nhân đạo của mình mà không cần phải là Mác xít Lêninít. Và có cần phải là cộng sản để thỏa mãn ước nguyện vừa giàu có vừa công bằng dân chủ văn minh không? Rõ ràng, quyền con người và tự do cá nhân không hề cản trở ca mục tiêu xã hội nhân đạo. Chỉ còn điều duy nhất cần, là đảng tự thay đổi.
6- Tự do kinh tế tất yếu tự do chính trị
- Tự do kinh tế là tự do kiếm sống, tự do mưu sinh là một biểu hiện của tự do cá nhân, là quyền của Tạo hóa, bất khả tước đọat. Trong tự do cá nhân có tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do nghiệp đoàn, tư do tôn giáo tín ngưỡng, tự do tư tưởng.
- Chính trị là tập hợp, là hiệp hội hay tổ chức của những cá thể cùng có chung, cùng chia sẻ hay cùng tôn thờ một tư tưởng, một tín ngưỡng. Vì vậy, bản chất của xã hội tự do là Đa nguyên, nó chỉ bị biến dạng, bóp méo khi bị tước đoạt một cách bất chính bởi một lực lượng chính trị nào đấy. Sự tước đoạt đó chỉ tồn tại khi duy trì được áp lực cưỡng chế thông qua các công cụ quyền lực. Khi dỡ bỏ các áp lực nhân tạo đó, xã hội lập tức trở về trạng thái vĩnh cửu, tức là quay về bản chất Đa Nguyên của nó.
- Thị trường là sở hữu tư nhân cộng với tự do cá nhân, sở hữu trí tuệ trong kinh tế tri thức là một loại tư liệu sản xuất bất khả công hữu hóa. Sở hữu cá thể các sản phẩm trí tuệ chính là tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng cộng với tự do nghiệp đoàn là tự do chính trị.
- Kinh tế thị trường có quy luật tự do cạnh tranh. Luật tự do cạnh tranh quy định quyền tự do nghiệp đoàn của các tác nhân kinh tế để bảo vệ quyền lợi của mình. Tự do nghiệp đoàn là tự do lập hội. Hội là tập hợp hay tổ chức của các cá thể có cùng hoặc chia sẻ một loại lợi ích, có thể là lợi ích vật chất và có thể là lợi ích phi vật chất, lợi ích tinh thần. Đó chính là tự do chính trị.
Vì vậy khi thừa nhận tự do kinh tế, đương nhiên là thừa nhận tự do cá nhân. Thừa nhận tự do cá nhân là thừa nhận tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng cộng với tự do nghiệp đoàn là tự do đảng phái. Một xã hội đa đảng phái là xã hội đa nguyên chính trị. Đa nguyên chính trị thì không có độc quyền chính trị, nghĩa là dân chủ. Như vậy tất cả chỉ là một, một cái gốc. Cái gốc đó là tự do cá nhân. "Con người sinh ra tự do, Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được". 
Các Hiệp định tự do thương mại FTA Việt Nam ký với các nước và Liên Hịệp châu Âu, TPP với Mỹ và các nước Thái Bìng Dương, là các Hiệp định được soạn thảo trên căn cứ lợi ích cá nhân và quyền con người. Cam kết với các Hiệp định này, đảng cộng sản dường như đã chấp nhận một lộ trình cải tổ. Đây có thể là một cải cách tiệm tiến hoà bình. Một cách mượn các Hiệp định để hợp thức hóa dần các thay đổi từ bên trong, kể cả những thay đổi về chất mà không bị cản trở bởi lý luận học thuyết.
7- Nhà nước và vai trò của nhà nước.
Trong mô hình cơ cấu xã hội hiện đại bao gồm Thị trường - Nhà nước - Xã hội. Nhà nước là một định chế Trung gian, gạch nối giữa Thị trường và Xã hội.
Như chúng ta đã thấy trong phần trước, chức năng nguyên thuỷ của Nhà nước là Trọng tài, hay Quan toà. Cho dù xã hội đã qua hàng nghìn năm từ khi trở thành một bộ máy công quyền có tính chuyên nghiệp, Nhà nước hiện đại không thể chối bỏ chức năng cơ bản là trung gian phân giải, điều hoà các xung đột giữa các tác nhân khác nhau trong xã hội. Với chức năng hòa giải, Nhà nước phải không chịu ràng buộc hoặc gắn kết lợi ích với bất cứ bên nào trong các bên xung đột. Nhà nước phải là cơ quan không tham gia trực tiếp vào các hoạt động vì vụ lợi, kể cả lợi ích đó là lợi ích công. 
Trong một xã hội công nghiệp, các xung đột thông thường là những xung đột giữa một bên là doanh nghiệp và một bên là lao động làm thuê. Những xung đột này, nếu không được giải quyết thỏa đáng, sẽ gây tổn thương cho bên bị thiệt hại, tác động tiêu cực tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, giảm lợi nhuận, giảm khả năng đóng góp của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới ngân sách nhà nước, từ đó tác động tiêu cực tới các giải pháp phúc lợi xã hội. Với bản tính vị kỷ, giới chủ doanh nghiệp thông thường có xu hướng giữ lại cho mình quá phần lợi ích thích đáng. Muốn để có thể giải quyết được các xung đột này, Nhà nước phải thật sự là Trung tính, khách quan, không có lợi ích gắn với bên nào, đảm bảo uy lực đối với cả hai phía. Nhà nước không trực tiếp làm kinh tế. Các lĩnh vực không có tư nhân tham gia kinh doanh, do không có khả năng sinh lợi, nhà nước mời thầu với lãi suất định mức tính trước, coi như một khoản thuế âm. 
Trong xã hội dân chủ hiện đại, Nhà nước và Chính phủ là hai bộ phận tách rời. Chính phủ luôn có khả năng luân chuyển theo định kỳ bầu cử, thường mang tíng đảng. Trong khi Nhà nước là công cụ chuyên môn thuần tuý, sẵn sàng phục vụ bất cứ chính phủ nào, vì vậy, Nhà nước là bộ máy phi chính trị và trung lập, có kết cấu tinh gọn và chuyên nghiệp nhất. 
Mọi chính sách sẽ được thể hiện bằng pháp luật. Với mỗi chính sách, thay vì ra Nghị định và Thông tư chỉ có giá trị quy phạm nội bộ và hành chính, Chính phủ ra một luật hay bộ luật tương ứng. Quy trình phê chuẩn luật vẫn theo nguyên tắc Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhấtb quyết định bằng bỏ phiếu kín hay biểu quyết công khai. Nhưng sau khi ban hành luật thì không phải chính phủ là người duy nhất giám sát mà là tư pháp. Vi phạm pháp luật sẽ bị truy tố bất kể người đó là ai. Vì một khi đã thành luật thì cái được bảo vệ là lợi ích bao trùm của cộng đồng là lợi ích cao nhất, lợi ích tối thượng. Ngay cả vai trò trung tính của Nhà nước cũng được quy định bằng Luật Nhà nước. Đó là nhà nước Pháp quyền.
Đảng phái hay lực lượng chính trị thắng cử, có quyền lập ra chính phủ, thường là đảng chiếm được số ghế lớn nhất trong quốc hội hay cơ quan lập pháp. Đấy chính là đa số phiếu đảm bảo cho việc phê chuẩn các bộ luật thể hiện đường lối và chính sách của đảng, theo chương trình đã dẫn đảng đến thắng lợi của trong chiến dịch tranh cử.
Trong xã hội dân chủ hiện đại, cơ chế điều chỉnh sự bóc lột thô bạo của chủ nghĩa lợi nhuận thuần tuý không phải là Nhà nước. Nhà nước không bảo vệ lợi ích của các tác nhân riêng rẽ trong xã hội. Chức năng đó là của các tổ chức tình nguyện dân sự hay là xã hội dân sự. Tổ chức dân sự là các tổ chức tình nguyện không vụ lợi hoat động có mục địch bảo vệ quyền lợi của hội viên. Có các tổ chức đại diện những người lao động làm thuê, nhưng cũng có các tổ chức dân sự của giới chủ doanh nghiệp. Xung đột giữa các hội đại diện sẽ được giải quyết thông qua thương lượng dưới sự giám sát và chứng kiến của nhà nước. Giải tỏa các xung đột trên lợi ích cộng đồng, nghĩa là không bên nào bị thiệt, hướng tới lợi ích chung là tăng trưởng. Trong tăng trưởng có lợi nhuận của nhà doanh nghiệp, có tiền lương của người lao động, có thuế thu nhập và thuế doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng... giúp tăng ngân sách, từ đó tăng khả năng phân phối phúc lợi xã hội. Nhà nước sẽ là trung gian tạo mọi điều kiện cho tăng trưởng, lấy tăng trưởng làm mục đích và quy tắc cho mọi hoà gỉải. Tăng trưởng bao gồm lợi nhuận của doanh nghiệp vừa để tăng tích luỹ năng lực mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, vừa thỏa mãn nhu cầu lợi nhuận, khuyến khích đầu tư của chủ doanh nghiệp. Trong tăng trưởng có tăng lương, tăng thu nhập thực tế của người lao động, trên cơ sở tỷ lệ ăn chia hợp lý theo nguyên tắc tạo ra tăng trưởng. Trong tăng trưởng có tăng trưởng năng lực điều phối phúc lợi xã hội do tăng nguồn thu ngân sách dựa trên của cải tạo ra từ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng phúc lợi là tăng trưởng an sinh xã hội, là tăng trưởng văn hóa và văn minh xã hội, tăng sức mua , tăng khả năng tiêu thụ từ chính bản thân nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng bền vững. Đây chính là vai trò kiến tạo tăng trưởng của Nhà nước.
Phản ứng của các tổ chức dân sự từ cả hai phía lao động và chủ doanh nghiệp, phản ánh chất lượng các bộ luật hay luật do chính phủ ban hành. Các luật hay bộ luật có tác haị hay có vi phạm sẽ bị đưa ra toà mà người bị đơn là Chính phủ.
Như vậy, khả năng khắc phục những khuyết tật của thị trường thuần tuý gồm xã hội dân sự và Nhà nước trung tính, hay nhà nước kiến tạo là hai trụ cột chính của một xã hội mang tính chất xã hội chủ nghĩa.
Để có một xã hội có tính xã hội chủ nghĩa nhất, trong thời điểm hiện nay là mô hình kinh tế Thị trường xã hội châu Âu. Công thức của nó là Thị trường tự do + Nhà nước Trung tính+ Xã hội dân sự.
Không phải cứ mang tên cộng sản là có được công bằng và thịng vượng. Nếu để đạt được giàu có và công bằng thì cách gọi tên chế độ là gì có quan trọng lắm không. Ở Cộng hoà Liên bang Đức, trong tên nước không có gì là cộng sản. các đảng luân phiên nhau cầm quyền từ hơn 70 năm nay không có đảng nào là cộng sản, nhưng đây là nơi có chế độ xã hội nhân đạo và văn minh nhất. Con người được hưởng thụ hiệu quả tăng trưởng tốt nhất. Đảng cộng sản Việt Nam cũng sẽ thay đổi, vì không thể không thay đổi, vì thay đổi là tất yếu. 
8- Việt Nam không thể không thay đổi.
Đã đến cái thời điểm mà đề tiếp tục tồn tại Việt Nam không thể không thay đổi
* Dân chủ để bảo vệ chủ quyền
- Dân chủ hóa Việt nam, dựa vào cơ chế Trưng cầu dân ý để chống lại và làm thất bại âm mưu bành trướng của nhà cầm quyền cộng sản Trung Hoa
- Dùng dân chủ Việt Nam làm động lực dân chủ hóa Trung Quốc như một giải phảp lâu bền và chắc chắn nhất để bảo vệ chủ quyền.
* Nhu cầu thay đổi hướng tới dân chủ là thực thế không thể đảo ngược
- Thời kỳ đói khát đã qua. 30 năm cởi trói, người dân Việt đói khát quá lâu đã lao vào cuộc tìm kiếm giàu có đã chỉ là những cuộc giành giật giữa dân chúng với nhau đã lắng xuống. Nhu cầu kiếm sống và làm giàu đã trở nên không còn gay gắt, một mặt, đời sống đã trở nên dễ chịu với cái đói đã thật sự lùi xa với gần 90% dân số, một mặt cơ hội giành giật của trời, do chuyển đổi từ một xã hội mà mọi tài sản, mọi của cải không có chủ sở hữu thực sự cũng đã cạn và đang dần dần có chủ, xã hội dân sự Việt Nam đang hồi tỉnh. Với bản năng nhậy cảm , con người Việt nam sẽ ý thức được nhanh chóng nguyên nhân của mọi nguyên nhân là chế độ. Nhu cầu phải có một Việt Nam tự do, dân chủ như các nước xung quanh. Việt Nam phải có tốc độ phát triển và xã hội phúc lợi tiên tiến vượt hơn hẳn các nước khác, đã là một đòi hỏi có thật và bức thiết.
- Thời đại thông tin với một cộng đồng công dân tới 40 triệu người, một khi chín muồi các điều kiện, sẽ là một cuộc cách mạng không gì ngăn cản nổi.
- Một Xã hội dân sự Việt Nam đích thực đã hình thành, đang phát triển rất nhanh về số lượng chất lượng, đang trở thành một làn sóng không thể trấn áp được bằng bạo lực.
- Giới trí thức tinh hoa của xã hội Việt Nam đã có một bước nhảy lớn và quyết định trong nhận thức vai trò của mình và đang thoát dần sự lệ thuộc ý thức hệ với chế độ sẽ là một động lực có ý nghĩa quyết định.
- Nhu cầu hoà hợp hoà gỉải dân tộc khỏi những hận thù quá khứ, giải phóng con đường quy tụ dân tộc đang trở thành một thúc ép không thể từ chối và lẩn tránh.
Chỉ có thể thay đổi hẳn về chất, thay đổi một cách hoàn toàn và triệt để, đảng cộng sản mới đáp ứng được các đòi hỏi thúc bách đó, và mới tránh được bị đào thải bằng một giải pháp bạo lực đại chúng.
Paris 11/03/2016
danlambaovn.blogspot.com

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2016

Liệu Việt Nam có thể tự cải cách?[2]


Tiếp theo phần 1
pobrane

Phần Hai – Thay đổi là tất yếu
Chủ nghĩa cộng sản không tồn tại
Đảng cộng sản nói chung và đảng cộng sản Việt Nam nói riêng tất yếu phải thay đổi hoặc tiêu vong, nếu thực sự cái mục tiêu lý tưởng mà nó theo đuổi là xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ là một ảo ảnh không có thực.
Để hiểu Chủ nghĩa cộng sản có thực tồn tại hay không, trước hết phải xem chủ nghĩa cộng sản là gì. Đây là vấn đề có tính lý thuyết lớn, đụng tới lý do ra đời và tồn tại cuả cả một phong trào cách mạng thế giới, trong lịch sử đã có lúc là một nửa nhân loại. Với phạm vi một bài báo, chúng ta sẽ chỉ xem xét nó trên một vài đặc trưng và cố gắng diễn giải nó một cách ngắn gọn.
Theo Mác, Ănghen và sau này được Lênin tiếp tục phát triển, chủ nghĩa cộng sản, hay xã hội cộng sản là giai đoạn phát triển cuối cùng trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, là giai đoạn tiếp theo của sự phát triển tột bậc của chủ nghĩa tư bản.
Vì là giai đoạn tiếp theo giai đoạn phát triển tột bậc của chủ nhĩa tư bản, nên chủ nghĩa cộng sản thừa hưởng nền đại sản xuất công nghiệp đạt tới một năng suất lao động đủ cao để đảm bảo “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Khi đạt tới mức phát triển tột cùng, khi mà của cải xã hội dã dồi dào tới mức vượt xa nhu cầu, chủ nghĩa tư bản sẽ tự chuyển hóa thành xã hội cộng sản, hoặc sẽ bị tiêu diệt theo một cách khác, mâu thuẫn giữa chủ sở hữu tư nhân và lực lượng lao động vô sản, tại thời điểm này đã phát triển tới cực điểm, dẫn đến cuộc cách mạng vô sản lật đổ tiêu diệt chính quyền của chủ nghĩa tư bản, thiết lập nên xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một xã hội không còn sở hữu, sản phẩm không còn tính hàng hóa, không thị trường, không tiền tệ, không nhà nước, không cảnh sát, không quân đội, không pháp luật, không tòa án.
Xét về mục tiêu, xã hội cộng sản là một xã hội mang tính nhân đạo, tất cả là của chung, tất cả đều miễn phí, không còn bóc lột, không còn khác biệt hưởng thụ, không có chiến tranh, không có mâu thuẫn đối kháng, không có cưỡng bức, tất cả là tự nguyện, là đồng thuận…
Nhưng mô hình tổ chức của nó, cơ chế vận hành của nó được xây dựng một cách tưởng tượng trên các căn cứ không tưởng, vô định, phản bội lại chính những nguyên lý của biện chứng lịch sử, một trong ba trụ cột của học thuyết Mác-xit.
1- Duy vật biện chứng Mácxít nói, thế giới là sự thống nhất của các mặt đối lập. Các mặt đối lập xung đột, đấu tranh giành giật,tiến tới thủ tiêu lẫn nhau. Đó là động lực của phát triển, của tiến hóa. Ở xã hội cộng sản không còn tồn tại mâu thuẫn đối kháng, nghĩa là không còn động lực phát triển, tất cả đều dừng lại. Xã hội sẽ đông cứng như trạng thái chết nhiệt vũ trụ. Bản thân xã hội sẽ hết năng lượng và tự sụp đổ vào trong như một ngôi sao chết, một lỗ đen.
2- Quy tắc làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu là một quy tắc không tưởng, vì nhu cầu không có giới hạn, và không có điểm dừng. Cầu sinh ra cung, nhưng cung lại sinh tiếp ra cầu, để lại sinh ra cung mới, rồi cung mới lại đẻ ra nhu cầu mới, một loại phản ứng dây chuyền nhiệt hạch, cứ thế tới vô cùng. Tại một thời điểm nhất định sau một chu trình sản xuất nhất định, cho dù năng suất lao động cao bao nhiêu, số lượng của cải tạo ra cũng là một con số cố định, ít nhất trong suốt thời gian của chu trình sản xuất tiếp theo, trong khi nhu cầu của mỗi con người, nhu cầu tổng thể của cả hệ thống xã hội là động và vô hạn, mâu thuẫn này tất yếu làm xã hội tan vỡ.
3- Xã hội không sở hữu cũng là một quy tắc phản biện chứng. Sở hữu là thuộc tính tạo hóa của con người. Một trong những khái nệm có ý thức đầu tiên, khi bắt đầu tách khỏi giới động vật trong quá trình tiến hóa của loài người là khái niệm sở hữu. Các nhà nhân chủng học đã chứng minh từ “cuả tôi” là một trong những từ đầu tiên của con người khi hình thành tiếng nói. Không ai có thể hình dung một xã hội mà trong đó không còn tồn tại khái niệm “của tôi”, “của anh”. Mọi loại quan hệ sẽ rối loạn, đổ vỡ.
4- Thủ tiêu sở hữu để từ đó thủ tiêu giai cấp chỉ thực hiện được đối với các tư liệu vật chất hữu hình, thông qua công hữu hóa hoặc quốc hữu hóa bằng quyền lực chuyên chính, nhưng khi tư liệu sản xuất chủ yếu cuả xã hội là tri thức, là sản phẩm trí tuệ là loại tư liệu phi vật chất và vô hình, thì Nhà nước bất lực. Tư liệu sản xuất của nền kinh tế tri thức không thể quốc hữu hóa, công hữu hóa. Sở hữu trí tuệ là sở hữu tạo hóa. Chỉ có đấng Tạo hóa mới có quyền lực đối với nó. Vì vậy mà sản phẩm hàng hóa của nền kinh tế tri thức là sở hữu tư nhân bất khả tước đoạt. Mô hình xã hội cộng sản buộc phải phá sản. Điều này phản ánh tư duy chết cứng của cả Mác và Lênin. Trong tiềm thức của các ông, kinh tế hàng hóa của chủ nghĩa tư bản chỉ và chỉ có từ nền sản xuất đại công nghiệp. Các ông không thể hình dung rằng, chỉ sau hơn một thế kỷ, nền kinh tế sản xuất công nghiệp chỉ còn chiếm khoảng 25%-30%, kinh tế tri thức và dịch vụ đã chiếm 65%-75% tổng GDP ở các nước công nghiệp phát triển, và có xu hướng chắc chắn tăng nhiều hơn nữa. Xã hội cộng sản liệu có hiện thực khi chỉ công hữu hóa được không quá 30% sản phẩm xã hội?.
Như vậy, xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể có thực. Nó chỉ như một thứ chuyện cổ tích thần thọai phản ánh ước nguyện cuả con người ở tình trạng bất lực.
Carl Marx là người phá hoại và kéo lùi lịch sử.
Luận điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác là luận điểm mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, dẫn đến sự kìm hãm của sức sản xuất. Mâu thuẫn tích tụ giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng bạo lực, lật đổ chính quyền của chủ nghĩa tư bản. Theo Mác, đó chính là là động lực cơ bản của phát triển.
Luận điểm này sai, rất sai, sai một cách cơ bản. Bản chất thuộc tính tự nhiên của hoạt động loài người là tìm kiếm lợi ích. Bản chất của hoạt động kinh tế là lợi nhuận. Chính lợi ích và sau này là lợi nhuận mới là động lực tự nhiên của phát triển.
Trong suốt chiều dài tiến hóa của xã hội loài người, bất kể biểu hiện bên ngoài dưới hình thái kinh tế-xã hội nào, cốt lõi xuyên suốt vẫn luôn là tìm kiếm, theo đuổi lợi nhuận, dưới vô số hình thức khác nhau. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo cách gọi của Mác là mâu thuẫn giữa người lao động và chủ sở hữu lao động, chỉ là mâu thuẫn trong phân chia sản phẩm, phân chia kết quả hay chính xác là phân chia lợi nhuận thu được từ quá trình sản xuất. Mâu thuẫn giữa lao động và chủ sở hữu luôn tồn tại, nhưng không phải là mâu thuẫn đối kháng theo quan điểm của Mác, vì cả hai đều có lợi ích gắn với kết qủa cuối cùng của sản xuất, tức là gắn với lợi nhuận cuối cùng, ngôn ngữ kinh tế hiện đại goị là lợi nhuận ròng. Nếu phân chia thiên quá về phía chủ, người lao động bị tước đoạt bất công sẽ không còn động cơ tăng năng suất, nghĩa là giảm lợi nhuận cuối cùng. Nhưng nếu phân chia thiên quá về phía người lao động, lợi nhuận cuối cùng giảm làm mất khả năng tái đầu tư mở rộng, sản xuất không phát triển, sinh ra thất nghiệp, giảm trực tiếp tới thu nhập của người lao động và trật tự xã hội.
Vì vậy, Phân chia thụ hưởng hợp lý trên nguyên tắc đảm bảo tối ưu lợi nhuận cuối cùng là luận điểm có ý nghĩa cách mạng căn bản.
Học thuyết sai lầm về mâu thuẫn của Mác đã chia thế giới, chia xã hội loài người thành hai phe đối kháng có nhu cầu phủ định, tiêu diệt lẫn nhau, chính là nguồn gốc của chiến tranh, cuả phân hóa và hận thù. Ông còn nói, “Lịch sử phát tiển của xã hội loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Có thể suy ra rằng theo ông, Chiến tranh là tất yếu, hay chiến tranh cũng là động lực của tiến hóa. Về mặt nào đó, chủ nghĩa Mác là nguyên nhân gây xáo trộn trật tự thế giới, phá huỷ nền tảng vật chất và làm chậm tiến trình phát triển của xã hội loài người. Sau khi ông “đi”, thế giới chứng kiến hai cuộc chiến tranh chưa từng có trước đó, và suốt 80 năm, thế giới bị chia thành hai nửa đối kháng nhau, mâu thuẫn với nhau, để tích tụ dần cho “đủ lượng” để “biến đổi về chất”, thành cuộc chiến thứ ba, tiêu huỷ hoàn toàn sự sống trên mặt Địa cầu.
Có thể tin được một thứ chủ nghĩa như vậy không?
Luận điểm về Nhà nước của chủ nghĩa Mác Lênin là một sai lầm.
Theo phương pháp luận của cả Marx và Lênin, Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp. Khi tồn tại phương thức sản xuất bóc lột nó bảo vệ lợi ích giai cấp bóc lột, khi xóa bỏ giai cấp và tư hữu, thì Nhà nước tự diệt vong. Nhà nước vô sản là công cụ chuyên chính của giai cấp vô sản để trấn áp mọi sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản và củng cố thành quả của cách mạng vô sản. Vì vậy Nhà nước đương nhiên phải có tính giai cấp. Trong xã hội do một đảng chính trị cầm quyền, nhà nước phải có tính đảng, phải là công cụ của đảng, có chức năng bảo vệ đảng và chính quyền của đảng.
Đây là luận điểm không đúng. Khi biến thành công cụ trong tay một giai cấp, Nhà nước tự nó đã không còn tính chính danh nữa, vì bản chất của nhà nước là Trung tính.
Khi xã hội nguyên thủy phát triển tập trung dần thành cộng đồng, những va chạm dân sự, những xung đột lợi ích trở nên phổ biến và phức tạp tới mức không thể tự thương lượng, dẫn tới nhu cầu phân xử thông qua một trọng tài trung gian. Trọng tài ban đầu chỉ là một cá nhân có uy tín được cả các bên xung đột chấp nhận và cam kết tuân thủ phán xử. Đó là quyền lực hợp thức của trọng tài. Chỉ cần một trong các bên xung đột, tranh chấp không thừa nhận, vai trò trọng tài và phán xét không còn giá trị hiệu lực. Cùng với sự phát triển xã hội, quy mô xung đột, tính chất xung đột lớn và phức tạp dần đòi hỏi trọng tài có quy mô tăng dần từ vài người thành một nhóm, rồi trở thành một tổ chức, một cơ quan chuyên nghiệp, tách ra khỏi sinh họat của số đông còn lại. Đây là hình thức ban đầu của nhà nước với chức năng nguyên thuỷ là trọng tài phân xử và hoà giải các xung đột trong xã hội. Ở Trung Quốc tới tận thế kỷ thứ ba sau công nguyên (nhà Hán năm 220- 280), công việc cuả một quan tri huyện vẫn chỉ duy nhất là việc xử các vụ kiện cáo trong dân. Quyền lực của nhà nước dựa trên uy tín chính trị và sự uỷ thừa quyền trực tiếp của dân chúng.
Cùng với sự phát triển và hoàn thiện dần của tiến hóa xã hội, nhà nước trở thành bộ máy quản trị kinh tế hành chính, nhưng chức năng chính của nó vẫn là trung gian điều phối, hoà giải các xung đột kinh tế và dân sự. Điều phối và hoà giải trong lĩnh vực kinh tế chính là điều hoà các xung đột xảy ra giữa các tác nhân kinh tế, trên nguyên tắc hợp lý và đảm bảo lợi ích bao trùm của tổng thể cộng đồng, nghĩa là trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích của các bên xung đột trên nguyên tắc kiến tạo tăng trưởng và phát triển ổn định. Điều phối và hoà giải các xung đột dân sự chính là đảm bảo an toàn, đạo đức, kỷ cương và trật tự xã hội.
Như vậy Nhà nước luôn là và phải luôn là một cơ quan trung tính, chuyên nghiệp và phi chính trị. Trong xã hội dân chủ hiện đại, khi chính quyền nhà nước có thể luân chuyển qua tay các chính thể khác nhau, luân phiên nắm giữ, tuỳ thuộc kết quả bầu cử, bộ máy nhà nước vẫn không thay đổi chức năng và xáo trộn về kết cấu.
Nhà nước có tính giai cấp và mang tính đảng theo tư tưởng Lênin, sử dụng công cụ bạo lực chuyên chính để trấn áp các đối kháng chính trị, các khác biệt tư tưởng là một nhà nước cai trị, đối lập lợi ích với số đông bị trị, là nhà nước phản tiến bộ.
Quá độ là gì
Quá độ là chuyển tiếp. Theo các tài liệu lý luận của đảng thì Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển tiếp từ một hình thức xã hội trước xã hội chủ nghĩa, có thể là chế độ sơ khai tư bản chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa phát triển, nhằm hoàn thiện những điều kiện cuối cùng để đi lên xã hội chủ nghĩa.
Định nghĩa này cho thấy, khi chấp nhận kinh tế thị trường, không phải đảng cộng sản thừa nhận tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ lợi dụng sự năng động và tính hiệu qủa của kinh tế thị trường để tạo dựng gấp rút nền móng hạ tầng kỹ thuật cho nền sản xuất công nghiệp hiện đại cần cho qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ 1991 ghi “Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Đây là một luận đề nhằm chính danh hóa chủ trương chấp nhận hình thức kinh tế tư bản trong một thời gian nhất định, hòng cứu vãn nguy cơ sụp đổ, nhưng “vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa”.
Nội dung của thời kỳ quá độ được ghi trong cương lĩnh 1991 là Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nói có lẽ phải đến giữa thế kỷ này mới kết thúc giai đoạn qúa độ.
Như vậy, nội dung của thời kỳ quá độ gói gọn lại là xây dựng nền công nghiệp hiện đại bằng sức mạnh của kinh tế thị trường. Nhưng nền công nghiệp hiện đại bao gồm những gì, chưa có ai trong lãnh đạo đảng nói ra, chưa ở đâu, chưa nơi nào, chưa tài liệu nào đề cập.
Như vậy, đến giữa thế kỷ này, nghĩa là bắt đầu vào khoảng 35 năm nữa, giai đoạn quá độ sẽ kết thúc, cơ sở kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã hình thành, thị trường cùng với kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa bắt đầu hết vai trò, bắt đầu quay lại là kẻ thù của cách mạng, sẽ dần dần phải biến mất. Một chiến dịch tước đoạt dưới danh nghĩa công hữu hóa sẽ lại được chuẩn bị. Tất cả các loại hình kinh tế ngoài nhà nước, bất kể là kinh tế tư nhân tự sản tự tiêu, bất kể là kinh tế gia đình, bất kể là doanh nghiệp cá thể hay cổ phần, bất kể tiểu chủ hay tiểu thương, buôn bán nhỏ hay đại gia tập đoàn tư nhân, tất cả sẽ lần lượt bị nhà nước ép giá mua lại, hoặc bằng công tư hợp doanh, bằng sáp nhập liên doanh, bằng quốc hữu hóa, bằng trưng thu, trưng mua, thậm chí bằng cả tịch biên v.v… sẽ chỉ còn kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể do nhà nước chỉ đạo quản lý là tồn tại. Sẽ là cuộc cách mạng vô sản lần nữa. Và sẽ lặp lại lần nữa một cuộc thảm sát kinh hoàng, một thảm họa.
Đó có thể chỉ là một kịch bản tưởng tượng. Nhưng cũng rất có thể nó đã có sẵn trong đầu các uỷ viên bộ chính trị, nhất là trong đầu Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, chủ bút của Cương lĩnh 2011, bổ sung và phát triển cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ông là người chỉ ra đến giữa thế kỷ này phải xong giai đoạn quá độ và cũng là người mong muốn đến cuối thế kỷ này sẽ có xã hội chủ nghĩa hoàn thiện trên đất Việt Nam, chắc chắn trong đầu ông đã hình thành một kế hoạch nào đó.
Ông Trọng ạ, đừng, đừng làm cái điều tôi đã tưởng tượng ra trong cơn hoảng loạn trên kia, tôi xin ông. Tôi hiểu ông có một niềm tin sắt đá vào sự tốt đẹp một xã hội cộng sản. Khoan hãy quy tội đó là một niềm tin mù quáng. Hãy nghĩ rằng chính niềm tin sắt đá đó chứng minh ông là một người lương thiện và có lòng phục thiện. Chỉ xin ông đừng để cho cái sắt đá trong đầu ông biến trái tim ông thành gỗ đá vô cảm.
Hơn tám mươi năm các ông cầm quyền, nước Việt Nam đi qua ba cuộc chiến tranh, 9 năm chống Pháp, 10 năm chống Mỹ, 3 năm trực tiếp nồi da nấu thịt, cốt nhục tương tàn, một cuộc cải cách ruộng đất, hai lần đổi tiền, gần 10 năm hợp tác hóa, hai lần cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Ông hãy thử hình dung. Có bao nhiêu đồng bào của ông bị chết tan xương nát thịt vì bom đạn. Có bao nhiêu chàng trai, cô gái ngây thơ, vô tội bị chôn vùi trên mọi ngóc ngách, mọi nẻo đường của đất nước mà không hiểu vì sao, cho cái gì. Có bao gia đình tan nát, cha mất con, vợ mất chồng, anh em ly tán, loạn lạc trên hai tuyến đối đầu gí súng vào đầu nhau mà bắn. Có bao nhiêu cuộc đời tới hai lần chạy trốn các ông, bốn chục năm tha hương vẫn chưa có đường về. Có bao nhiêu người gửi thân dưới đáy biển mênh mông. Có bao nhiêu mồ hôi nước mắt bị các ông tước đoạt. Bao nhiêu mồ mả bị các ông đào xới…Có bao nhiêu oan hồn còn không có nơi trôi dạt…
Đừng, đừng một lần nữa lại làm ra cuộc thảm sát. Với tất cả danh dự của một con người, tôi cầu xin ông. Cũng như tôi, như tất cả, rồi các ông cũng sẽ phải ra đi, hãy để lại chút ít phúc đức cho con cháu các ông. Và hãy cầu mong khi xuôi tay, chúng ta đều có thể bình an nhắm mắt.
***
(phần hai còn tiếp)
© Bùi Quang Vơm
© Đàn Chim Việt

Liệu Việt Nam có thể tự cải cách?[1]

 

Những ai đọc ANHBASAM nhiều tháng nay, đều có thể biết câu hỏi này là của tác giả Nguyễn Thị Từ Huy, một người viết có uy tín, uy tín bởi phương pháp tiếp cận có tính cách hàn lâm, bởi sự mạch lạc của tư duy lôgíc và sự sâu sắc phong phú trong kiến thức.

Nhưng đề tài được đề cập là vấn đề có tính bao quát lớn, vưà là vấn đề có tính lý luận cơ bản, vừa là vấn đề thực tiễn, cần nhiều dữ liệu.
Rất nhiều người đọc không giấu sự tâm đắc với những ý kiến mà tác giả nhận định, những gợi ý cho những kết luận khả dĩ.
Nhưng phải thú thật rằng theo dõi cả chín phần của bài viết, tôi chờ đợi một đáp án, khả dĩ làm dịu phần nào sự bức bối. Tuy nhiên, có vẻ như tác giả vẫn để treo câu trả lời, bởi vì, đọc xong, người đọc vẫn không thực rõ “Việt Nam có thể tiến hành cải cách hay không“? Nhưng chính gợi ý của tác gỉả là tiền đề của bài viết này.
Bài viết sẽ được trình bày thành ba phần. Phần một là Đảng cộng sản Việt Nam sẽ không tự cải cách. Phần hai Thay đổi là tất yếu. Phần ba Thay đổi bằng cách nào.
Với tính chất một bài báo, không thể hy vọng độ sâu và độ chín của các phân tích, nhưng trước một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn lớn, tôi nghĩ có nhiều ý kiến khác nhau chỉ giúp tiệm cận chân lý. Vả lại, cả “cột đình” ” cái quạt” cùng rất nhiều những cái khác nữa mới làm ra con voi.
***
Ảnh vnexpress.net
Ảnh vnexpress.net
PHẦN MỘT – Đảng cộng sản sẽ không tự cải cách.
1- Suốt 85 năm đảng cộng sản VN không thay đổi mục tiêu
Chánh cương của Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 do chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
Cương lĩnh thứ hai tại Đại hội lần thứ nhất năm 1930 gọi là Luận cương chính trị, do Trần Phú biên soạn ghi “cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”
Cương lĩnh thứ ba, Đại hội đảng toàn quốc lần thứ hai ( tháng 2-1951) gọi là “Luận cương cách mạng Việt Nam”, do Trường Chinh trinh bày tiếp tục “xác định nhiệm vụ cơ bản hiện thời của cách mạng là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân; gây cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội”
Cương lĩnh thứ tư được gọi là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1991)” do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến 27-6-1991 vẫn khẳng định
“phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”
Cương lĩnh thứ năm, năm 2011 là cương lĩnh “bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991″ khẳng định “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Cương lĩnh này xác định Quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa là một giai đoạn phức tạp cần phải “kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Nghị quyết Đaị hội XII 28/01/2016 “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, Mục tiêu xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nền tảng Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hòn đá tảng, là linh hồn, là sợi chỉ xuyên suốt sự tồn tại của đảng.
2- Đổi mới không phải là cải cách
“Đổi mới, đổi mới đồng bộ và toàn diện” là những từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, theo cách nói hàn lâm là có tần số xuất hiện nhiều nhất trong các văn kiện chính trị cuả đảng cộng sản Việt Nam, đặc biệt là trong tất cả các báo cáo chính trị, các nghị quyết Đại hội từ những năm 80 cuả thế kỷ trước, tức là suốt từ Đại hội VI cho đến Đại hội XII mới kết thúc ngày 28/01/2016. Thực sự là đảng cộng sản đang rất quyết tâm đổi mới. Nhưng nếu tìm từ ‘cải cách’ thì chỉ thấy ‘cải cách hành chính’, ‘cải cách giáo dục đào tạo’, ‘cải cách chế độ tiền lương’, ‘cải cách thông tin tuyên truyền’ v.v…mà không thấy có cải cách chính trị, cải cách tư tưởng. Nếu hiểu cải cách là bỏ hẳn cái cũ và thay bằng cái mới, thì rõ ràng chúng ta thấy, đảng cộng sản chỉ thay công cụ, thay phương tiện, không thay đổi mục tiêu. Mục tiêu đó là Xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Mục tiêu này cùng với lấy “Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ Nam cho mọi hành động” vẫnkhông có gì thay đổi từ Luận cương chính trị cuả Trần Phú tới Cương lĩnh 1991, cương lĩnh bổ sung 2011, Hiến pháp 2013, Nghị quyết đại hội XI, Nghị quyết Đại hội XII mới đây. Đó là tư tưởng nhất quán, bất di bất dịch. Đó là cái Bất Biến.
Trong buổi lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập đảng 3/2/2000, tổng bí thư Lê Khả Phiêu tuyên bố: “Chúng ta đã đổi mới, nhưng chúng ta quyết không đổi mầu. Những khó khăn và những thử thách sẽ không ép buộc được chúng ta đi ra ngoài con đường xã hội chủ nghĩa”.
Những năm cuối 70, đầu 80 thế kỷ trước, chế độ cộng sản đứng trước nguy cơ tan vỡ, sụp đổ. Vừa ra khỏi cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài, sa lầy khơ me đỏ trên đất Cămpuchia, chiến tranh biên giới với Trung quốc, cấm vận của Hoa kỳ, một miền Bắcxơ xác chạy ăn từng bữa vì hợp tác hóa, một miền Nam tan hoang tiều tụy sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Hoặc chết hoặc trả ruộng đất về cho nông dân, bỏ ngăn sông cấm chợ, giải khóng sản xuất, giải phóng thị trường.
Nguyên lý “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đọan phát triển tư bản chủ nghĩa” buộc phải nhường chỗ cho “vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam”. Và lý thuyết “giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội” ra đời, thừa nhận nền kinh tế đa sở hữu, đa thành phần. Đây không phải là kết qủa của thay đổi nhận thức mà là gỉải pháp tình huống, cứu cánh tức thời. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường vẫn giữ nguyên tính gay gắt giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa cách mạng và kẻ thù của nhân dân, dân tộc.
Nghị quyết TW 4 Đại hội XI ngày16/01/2012 xác định “các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng”.
30 năm đổi mới từ Đại hội 6 năm 1986, nhưng Nghị quyết Đại hội XII 28/01/2016 vẫn ghi “phải kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”.
3- Sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước là thành quả của cách mạng vô sản
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là qúa trình phi sở hữu hóa xã hội.
Lị̣ch sử cách mạng vô sản Việt Nam trong cương lĩnh của Trần Phú là cuộc cách mạng gọi là “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản” được gói gọn thành khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, rồi được tóm gọn mang tính thiết thực là “đánh đổ phong kiến địa chủ, giành ruộng đất về tay nông dân”. Khẩu hiệu này đánh trúng vào ước nguyện ngàn đời của tầng lớp nông dân nghèo khổ đang chiếm tới 98% dân số Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là sức mạnh giúp cho cho đảng cộng sản Việt Nam với chỉ gần 5000 đảng viên giành được chính quyền.
Nhưng con đường đi lên xã hội chủ nghĩa là con đường phi sở hữu hóa tư liệu sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, nhằm gỉải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của lực lượng sản xuất với tính tư hữu tư bản chủ nghĩa của quan hệ sản xuất, tức là tính tư hữu đối với phương tiện sản xuất.
Rập theo khuôn mẫu của Liên xô những năm sau Đại chiến II và của Trung quốc những năm 60, hai quốc gia lần lượt được coi là thành trì của chủ nghĩa Mác Lênin, thành trì kiên cố của phe xã hội chủ nghĩa, Chiến dịch tập thể hóa, hợp tác hóa nông nghiệp, cùng với quốc hữu hóa và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh trên toàn miền Bắc những năm 60, ở miền Nam sau giải phóng bắt đầu từ năm 78, xoá sạch dấu vết của sở hữu tư nhân trên toàn cõi Việt Nam. Đây là một sai lầm nghiêm trọng dẫn đễn đến sự tiêu huỷ hoàn toàn, triệt để mọi hạ tầng cơ sở của một nền kinh tế thông thường, biến Việt Nam thành một đất nước tan hoang, ngược trở lại thời kỳ đồ đá, nhưng vẫn tiếp tục được coi là một thành quả cách mạng, theo khía cạnh là thủ tiêu tiềm lực của các đối trọng chính trị, của các lực lượng đội kháng, tiềm ẩn trong chế độ tư hữu ruộng đất và tư hữu tư bản chủ nghĩa trong công nghiệp, công thương, kẻ thù của cách mạng vô sản. Điều này phù hợp với nguyên tắc chuyên chính vô sản của Lênin, và sau này thành công cụ tập quyền cá nhân của Stalin, là nguyên tắc được đảng cộng sản các nước tôn thờ như một vũ khí vô địch của cách mạng.
Điều 4 Luật đất đai ra đời năm 2013 và được sửa đổi năm 2015 vẫn ghi “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”, bất chấp sự phản đối của toàn dân, ý kiến đóng góp của rộng rãi mọi tầng lớp tinh hoa của xã hội.
Quốc hữu hóa đất đai, quốc hữu hóa toàn bộ tài nguyên khoáng sản, toàn bộ rừng biển, quốc hữu hóa toàn bộ công xưởng, nhà máy, xí nghiệp tư nhân là thành quả to lớn của cách mạng vô sản trên con đường xóa bỏ sở hữu để tiến tới xã hội chủ nghĩa, dù phải chấp nhận tạm thời cơ chế đa sở hữu, chấp nhận cơ chế thị trường, chỉ là giải pháp cho thời kỳ quá độ để giữ ổn định xã hội, để bảo vệ sự tồn tại của chế độ. Sau khi thời kỳ quá độ này hoàn thành, các thành phần kinh tế tư nhân, các hình thức sở hữu tư nhân sẽ dứt khoát bị dẹp bỏ.
Cương lĩnh chính trị bổ sung và phát triển 2011 nói, “đến giữa thế kỷ XXI, chúng ta phải xây dựng xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.
4- Hoà hoãn với Trung Quốc để bảo vệ chế độ
Chính danh cuả cách mạng Việt Nam được dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Xa rời chủ nghĩa Mác, xa rời quốc tế cộng sản là biểu hiện rời bỏ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, là phản bội cách mạng, là không còn tính chính danh. Trung quốc có vai trò thay thế Liên xô là thành trì duy nhất còn lại của phong trào cộng sản quốc tế, trụ cột của lý tưởng cách mạng vô sản toàn cầu.
Duy trì mối quan hệ hữu nghị với đảng cộng sản Trung Quốc là nguyên tắc trong điều lệ sinh hoạt tư tưởng và công tác xây dựng đảng. Bất chấp mọi mâu thuẫn xung đột về quyền lợi hay chủ quyền quốc gia, đảng cộng sản Trung quốc luôn được coi là đồng minh ý thức hệ tin cậy nhất, chỗ dựa bền vững nhất cho chế độ độc đảng cộng sản cai trị, vì vậy mới có cách gọi các xung đột là “xích mích của anh em trong nhà”.
Một trong những cơ chế gắn bó mật thiết giữa hai đảng mà không một mối quan hệ nào có được, đó là Hội thảo Lý luận hàng năm, được tổ chức luân phiên, một năm tại Việt Nam, một năm tại Trung quốc, giữa hai uỷ viên bộ chính trị, nắm giữ trách nhiệm lý luận và tư tưởng của mỗi đảng, cùng với khoảng 50 cán bộ nghiên cứu lý luận cao cấp của mỗi bên. Nguyễn Phú Trọng là một bên đồng sáng lập, năm 2003. Đây là cơ chế vừa đảm bảo tính trung thành với chủ nghĩa cộng sản của hai đảng, vừa là cơ chế giải quyết các xung đột mọi phương diện thông qua thương lượng trên nền nguyên tắc của tinh thần quốc tế cộng sản. Việc mỗi bên lập viện bảo tàng thành tựu Hội thảo và tổ chức kỉ niệm, tổng kết thành quả mỗi kỳ 5 năm là cơ chế đảm bảo tương hỗ cho sự tồn tại cuả chế độ như một đồng minh. Hội thảo gần đây nhất là Hội thảo lần thứ XI, do Chủ tịch Hội đồng lý luận Tw Đinh Thế Huynh, uỷ viên bộ chính trị, trưởng ban tuyên giáo TW dẫn đầu phía Việt Nam, và Lưu Bảo Châu, uỷ viên bộ chính trị đảng cộng sản Trung Quốc, bí thư Ban bí thư và là trưởng Ban tuyên truyền TW đảng cộng sản Trung Quốc dẫn đầu, họp tại Thượng Hải, ngày 17/06/2015.
Không còn cơ chế Hội thảo lý luận thì cũng không còn Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan.
5- Thúc đẩy quan hệ với Mỹ cũng chỉ để bảo vệ chế độ
Quan hệ với Mỹ luôn là nhu cầu và nguyện vọng cuả lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, trước hết vì Mỹ là một đảm bảo chắc chắn cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, một đảm bảo cho sự ổn định của xã hội, cũng có nghĩa là ổn định của chế độ.
Một khía cạnh khác là Mỹ vốn không bao giờ có ý định bành trướng lãnh thổ, quan hệ với Mỹ không bị đe dọa chủ quyền, trong khi trên thực tế, với tư cách người giữ trật tự thế giới, Mỹ là người có vai trò đặc biệt có ảnh hưởng tới khả năng bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trước nguy cơ và áp lực bành trướng, chiếm đoạt lãnh thổ, lãnh hải của láng giềng Trung quốc.
Nhưng Mỹ là quốc gia cổ súy tự do dân chủ, là quốc gia luôn đứng đầu thế giới trong cuộc chiến chống độc tài chính trị và vi phạm nhân quyền, trên quy mô địa cầu. Ở khía cạnh này, Mỹ là kẻ thù của đảng. Vì vậy quan hệ với Mỹ trước hết phải được đảm bảo không nhằm lật đổ hay thay đổi chế độ.
Chuyến thăm Mỹ theo lời mời cuả tổng thống Mỹ OBAMA được bà Hillary Clinton chuyển tới Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từ tháng 7/2012, nhưng mãi ba năm sau, ngày 5/7/2015 mới được thực hiện. Không phải Đảng cộng sản Việt Nam thiếu nhiệt tình. Đây là ước muốn bất ngờ đối với toàn đảng và với chính bản thân ông Trọng. Lời mời của tổng thống Mỹ là một chứng chỉ cho tính chính danh đang chìm trong khủng hoảng của đảng cộng sản. Nhưng trước hết phải khẳng định lời mời không phải là một cái bẫy chính trị, chính phủ Mỹ sẽ lợi dụng chuyến thăm để gây áp lực dân chủ hóa xã hội Việt Nam, tạo dựng các nhân tố thay đổi chế độ trong tương lai. Một chiến dịch thẩm soát được tổ chức hết tốc lực, bất chấp mọi tốn kém. Phải soi xét tất cả các góc khuất, phát hiện mọi bí ẩn. Phải xét từng từ trong các văn bản sẽ phải đưa ra ký kết. Trước hết và trên hết, thể chế cộng sản độc đảng Việt Nam phải được thừa nhân như một chính thể chính đáng, một thứ chủ quyền quốc gia, bất khả xâm phạm. Chuyến thăm Mỹ vừa kỳ lạ vưà bất ngờ của ông bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị, một nhân vật không chức vụ trong chính phủ, không đại diện Thủ đô, một nhân vật thuần tuý chính trị, không tương ứng với bất kỳ tư cách nào của chínmh phủ Mỹ, được ném đi như viên đá dò đường, vào ngày 21/07/2014, đúng một năm trước ngày ấn định chính thức. Sau nữa là an ninh chính trị, uy tín ngọai giao, và cuối cùng là an ninh cá nhân cuả tổng bí thư phải được đảm bảo tuyệt đối. Chuyến công du 5 ngày, từ 15 đến 20/03/2015 của bộ trưởng công an Trần Đại Quang là thẩm định lần cuối, là đảm bảo cho việc hoàn tất mọi công tác chuẩn bị.
Nhưng dẫu cho sự thân thiện cởi mở chân thực trong suốt hai mươi năm quan hệ bình thường giữa hai nước là có thật, mối nghi ngờ về một đe dọa “diễn biến” “chuyển hoá” đã khiến tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng buộc phải lợi dụng lễ kỉ niệm 100 ngày sinh của cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, ngày 1/07/2015, đúng bốn ngày trước ngày thăm chính thức để chuyển thông điệp tới tổng thống OBAMA và chính phủ Mỹ, rằng “Trong điều kiện nước ta, không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động… hoạt động chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ. Đó là điều mà nhân dân ta dứt khoát không chấp nhận”.
6- Chống tham nhũng chỉ để bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ.
Mặc dù Luật phòng chống tham nhũng được ban hành từ 29/11/2005, nhưng tham nhũng không hề suy giảm mà ngược lại, đã trở thành một tệ nạn phổ biến tràn lan, trên toàn bộ hệ thống xã hội, như phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan nói : “người ta ăn của dân không từ một thứ gì”. GS. Hoàng Chí Bảo, Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương, cũng nói rất đúng rằng “Giờ có cả tham nhũng trong chính sách, tham nhũng trong chính trị chứ không chỉ có tham nhũng trong kinh tế. Tham nhũng giờ không phải là tham nhũng vặt mà là tham nhũng lớn, không chỉ tham nhũng cá biệt mà còn thành cả hệ thống.”
Đấy là biểu hiện bất lực của pháp luật. Chính ông Trọng cũng phải thừa nhận, “muốn chống được tham nhũng phải chống ngay trong các cơ quan chống tham nhũng”. Ông Thủ tướng là trưởng ban TW phòng chống tham nhũng, nhưng chính ông này là một đối tượng tham nhũng. Nhưng thu quyền trưởng Ban phòng chống tham nhũng vào tay, thì ông chỉ làm được việc gạt bỏ ông Dũng và một loạt những phần tử tham nhũng khác. Nhưng nguyên nhân, gốc rễ của tham nhũng vẫn còn nguyên.
Luật Phòng chống tham nhũng 2005 định nghĩa “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. ” và tài sản có khả năng tham nhũng cao nhất là những tài sản công và những loại tài sản không xác định được sở hữu, như đất đai, tài nguyên, các tài sản thuộc vốn và tài sản nhà nước, các tập đoàn, các tổng công ty quốc doanh.v.v..
Như vậy, rõ ràng giải pháp cho phòng chống tham nhũng phải cơ bản có hai mặt. Một là tính tối thượng và độc lập của Pháp luật. Nhưng nghị quyết đảng nói quyền lực cuả nhà nước là thống nhất. Lập pháp hành pháp và tư pháp được phân công tách bạch về chức năng nhưng thống nhất về mục tiêu chính trị. Mà mục tiêu chính trị là độc quyền của đảng với những con người bằng xương bằng thịt là bộ chính trị. Thực chất cuả sự thống nhất này là cả ba cơ quan đều chịu sự phân công và điều chỉnh của bộ chính trị. Hai là sở hữu hóa tất cả mọi lọai tài sản. Nhưng đất đai, tài nguyên khóang sản, rừng, biển, các loại tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện làm chủ sở hửu. Nhà nước là tất cả, nhưng Nhà nước là vô hình, thực chất mọi tài sản kể trên kia đều là tài sản vô chủ. Nếu phi chính trị hóa Lập pháp, và Tư pháp, nếu sở hữu hóa mọi tài sản công, thì chủ nghĩa xã hội tự tan vỡ, đảng cộng sản tự tiêu tan.
6- Ông Trọng không phải là người cải cách
Ông Nguyễn Phú Trọng không phải là người có tư tưởng cải cách.
Ông Trọng là người ít xuất hiện trên truyền thông đại chúng và rất hạn chế phát ngôn trước công chúng. Ông có ý thức trong việc tránh gây dư luận. Tuy nhiên, không khó để thấy ông chính là tảc giả của cái chế độ hiện nay của nhà nước cộng sản Việt Nam.
Trong lịch sử, Chủ tịch đảng, Tổng bí thư đảng từ Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Lê Duẩn thường đồng thời là linh hồn, là cột trụ lý luận Trung ương, nền tảng tư tưởng của toàn đảng. Sau cái chết của Nguyễn Văn Linh, nền lý luận của đảng cộng sản bắt đầu thời kỳ khủng hoảng, cùng với sự sụp đổ của Liên xô, ngọn cờ đầu của chủ nghĩa chủ nghĩa Mác Lênin và phong trào cộng sản quốc tế, thành trì kiên cố của phe xã hội chủ nghĩa. Tổng bí thư Đỗ Mười, một người mà chính cố thủ tướng Phạm Văn Đồng gọi là một “người võ biền”. Nền lý luận thực sự không còn gì sau hai nhiệm kỳ làm Tổng bí thư của Nông Đức Mạnh. Chính lúc đó, Nguyễn Phú Trọng, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí cộng sản, xuất hiện như vị cứu tinh của nền lý luận cộng sản Việt Nam. Năm 2001vừa làm bí thư Hà Nội vừa kiêm chủ tịch Hội đồng lý luận TW, phụ trách việc soạn thảo các văn kiện chính trị chuẩn bị Đại hội đảng lần thứ X. Có thể coi là từ lúc này, ông trở thành kiến trúc sư trưởng của chế độ. Cương lĩnh chính trị năm 2011 bổ sung và phát triển Cương lĩnh 1991, chính là sự khẳng định tư tưởng nhất quán của ông kế tục tư tưởng của Nguyễn văn Linh, trung thành tuyệt đối với lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa Mác Lê nin.
Ông là người đầu tiên trong số uỷ viên Bộ chính trị nói rõ quan điểm không chấp nhận đa nguyên đa đảng. Trả lời phỏng phấn thông tấn xã Ấn độ ngày 23/02/2010, trong chyến thăm Ấn Độ với tư cách Chủ tịch Quốc Hội, ông Trọng khẳng định “Việt Nam không có nhu cầu khách quan để đa nguyên, đa đảng”.
Ngày 30/06/2015, trong lễ kỷ niệm 100 ngày sinh cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, ông một lần nữa tuyên bố “dứt khoát không chấp nhận đa nguyên đa đảng”… “không để hình thành đảng chính trị đối lập”.
Tháng Hai, năm 2013 đánh giá các kiến nghị sửa đổi Hiến pháp của 72 nhân sỹ, trí thức có uy tín, đại diện giới tinh hoa trong nước, ông nói “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến, cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.”
Sau đó ông quy chụp “Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không? Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm đấy, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thế là suy thoái chứ còn gì nữa. Tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể, thì nó là cái gì? Nên phải quan tâm xử lý những điều đó.”
Ông nghiền ngẫm để cho ra được nghị quyết 4, nhằm kết tội “suy thoái, diễn biến”. Ông phát động chiến dịch luân chuyển cán bộ để tẩy não, để thay máu bộ máy quyền lực, để tạo không khí khủng bố trong toàn đảng và toàn xã hội, chỉ với một mục đích duy nhất là bảo vệ sự kiên cố bất khả chuyển hóa của lập trường Mác Lênin, của chế độ cộng sản độc đảng, của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh 2011 của đảng ghi: “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, còn ông thì nói: có lẽ phải đến giưã thế kỷ này mới kết thúc giai đoạn quá độ. Rồi ông lại tự hỏi “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa….”
Khoan chưa tranh luận với ông về cái chủ nhĩa xã hoàn thiện của ông là gì và có tồn tại hay không, điều chúng ta quan tâm ở đây là sự chết cứng trong tiềm thức tư duy của ông. Cái ảo ảnh không tưởng xuất hiện trên thế giới từ gần hai thế kỷ nay vẫn còn nguyên trong đầu ông như chất kết tủa, là bằng chứng không thể chối cãi rằng ông Không phải là người cải cách.
Kết luận
Trong phần kết bài ” Việt Nam có thể tiến hành cải cách hay không?” Tác giả Nguyễn Thị Từ Huy có viết:
Chỉ có một số rất ít người nhìn vào sự liêm khiết về tiền bạc của ông mà đặt một hy vọng mong manh rằng ông có thể thực hiện các cải cách cần thiết. Trong số rất ít này có tôi, người viết bài này.
Như vậy, trong số rất ít người ấy, không có tôi. Có thể tôi chưa có đủ lý lẽ, nhưng với những gì tôi thấy tới lúc này, thì tạm thời, tôi không nói khác được.
Paris
05/03/2016
© Bùi Quang Vơm
© Đàn Chim Việt